|
Hơn ba mươi năm trước, khi cuộc chiến ở Việt Nam c̣n đang ở giai đoạn khốc liệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đă mường tượng ra một viễn ảnh thanh b́nh làm say đắm ḷng nguời: “Khi đất nuớc tôi không c̣n chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đuờng.”
Sau cuộc chiến, quả nhiên trẻ con có la cà và tụm năm tụm ba hơi nhiều trên đường phố. Chỉ có điều là tuyệt nhiên không nghe một đứa nào hát đồng dao; đă thế, phần lớn tụi nhỏ đều tham dự tích cực vào nhiều sinh hoạt không thích hợp cho lắm với tuổi thơ: bới rác, móc túi, ăn mày, bán cần sa, và nài nỉ mời khách mua… dâm – với một thứ ngôn ngữ sỗ sàng và sống sượng đến độ có thể làm đỏ mặt một người da đen hay da đỏ: “Chú ơi, chú chơi cháu đi…” (Hoàng Hữu Quưnh– Tôi Bỏ Đảng, Tập I: Bản Cáo Trạng Chế Độ Hà Nội, trang 140, 1989, trích từ Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư của Minh Vơ, Thông Vũ xuất bản năm 1999).
Đó là những chuyện chỉ có tính cách “hiện tượng,’’ xảy ra mấy thập niên về trước, khi ḥa b́nh mới đuợc văn hồi, và xă hội c̣n nhiều tệ đoan do tàn tích của chiến tranh. Với thời gian, bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam mỗi lúc được nhận biết rơ ràng hơn.
Từ
Hà Nội, kư giả Huw Watkin tường thuật rằng “cứ năm đứa
bé đang lê trên vỉa hè của ba mươi sáu phố phuờng là có
một đứa… ăn xin. Bốn đứa c̣n lại, xem chừng, cũng bận:
đánh giầy, năn nỉ người đi đường mua vé số, dắt mối, bán
ma túy…” (“VIETNAM: CHILDREN SOLD INTO BEGGING, PIMPING
AND DRUG DEALING”).
Cũng vẫn theo y như lời Huw Watkin th́ lực lượng trẻ con đi ăn mày, làm ma cô và bán ma túy… ở Việt Nam đang dần được đưa vào tổ chức (“… recent media reports that children are being increasingly used by organized begging gangs, pimps and drug dealers”).
Chuyện này th́ thằng chả nói hơi… thừa! Ở một xứ sở mà Nhà nước bao biện mọi chuyện, và lănh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng hay thánh thất… – làm sao để cho trẻ em (những mầm non tương lai của Tổ quốc) sống vô tổ chức được, cha nội?
Trong tương lai gần, lũ trẻ thơ bụi đời ở Việt Nam (dám) sẽ được đoàn ngũ hoá – và cho thắt khăn quàng có màu sắc khác nhau – để dễ điều phối. Đại loại như, khăn quàng xanh: đánh giầy; khăn quàng tím: dắt mối; khăn quàng trắng: ma túy; khăn quàng hồng: măi dâm; khăn quàng nâu: ăn mày; khăn quàng đỏ: thu thuế và theo dơi hoạt động, cũng như tư tưởng, của những loại khăn quàng khác!
Chiến tranh Việt Nam kết thúc cũng chấm dứt luôn sự chia cách giữa hai miền Nam/Bắc. Viễn tuợng thống nhất (cũng) đă đuợc h́nh dung bởi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn truớc đó, và cũng là một h́nh ảnh khiến cho không ít kẻ phải ước mơ: “Một đoàn tầu đi tỏa khói trắng hai bên đường…’’
Một lần nữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại đúng, dù vẫn chưa đúng hết. Sau cuộc chiến, quả nhiên là có đoàn tầu Thống Nhất xuôi ngược Bắc Nam. Điều đáng tiếc là hành khách lại luôn luôn ở tâm trạng bất an. Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người lo bị công an xét hỏi và tịch thu hàng hoá, nếu là dân buôn lậu. Và tất cả đều lo sợ bị ném đá vỡ đầu. Những ḥn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc hai bên đuờng – đợi xe lửa đi qua – thi nhau ném vun vút vào cửa sổ!
Do vậy, tầu Thống Nhất đuợc “cải tiến’’ bằng cách rào kín mọi khung cửa bởi dây kẽm theo h́nh mắt cáo. Từ đó, nó trông y như những toa xe dùng để chở tù. Những đoàn tầu như thế mà đi phom phom, hớn hở hú c̣i, và hân hoan thơ thới, sung sướng “toả khói trắng hai bên đuờng’’ th́ trông (e) hơi mỉa mai và (có phần) lố bịch!
Trịnh Công Sơn chỉ gần hoàn toàn đúng khi mô tả thảm cảnh sau đây: “Khi đất nuớc tôi không c̣n chiến tranh, mẹ già lên núi t́m xuơng con ḿnh…’’ Nói là “chỉ gần hoàn toàn đúng” v́ cuộc chiến đă tàn từ lâu. Thế hệ của những “mẹ già lên núi t́m xuơng’’ đă qua nhưng chuyện đào bới hài cốt vẫn được tiếp tục bởi anh chị em, hay bạn đồng đội của những người đă khuất – theo như tuờng thuật của Rajiv Chandrasekaran, trên The Washington Post: ’’Vietnamese Families Seek Their MIAs.”
Bài báo mở đầu bằng một câu chuyện thương tâm. Ông Nguyễn Dinh Duy tử trận ngày 29 tháng 3 năm 1975. Suốt mấy muơi năm qua, chị của ông ta (Bà Thắm) vẫn không ngừng đi t́m kiếm xác em trong… vô vọng. Ông Duy chỉ là một trong 300,000 lính Bắc Việt chết trận mất xác – và kể như là mất luôn (Duy is one of about 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not been located – and likely never will be).
Tiếp
theo là một câu chuyện cảm động về t́nh đồng đội: “Mỗi
tuần một lần, ông Ban thức dậy lúc 5 giờ sáng, leo lên
chiếc xe gắn máy màu xanh lá cây đă cũ, đi đến những nơi
mà ông c̣n nhớ khi c̣n là một y tá trong quân đội. Trí
nhớ của ông quả tốt; mười năm qua, ông tuyên bố, đă đào
được 2,000 xác chết và đă nhận diện được một nửa trong
số này…’’ Vẫn theo lời ông Ban: “Là kẻ sống sót, tôi tự
thấy ḿnh phải có bổn phận với những nguời đă chết
(Being still alive, I feel responsible for the dead
people).
Quan niệm sống của ông Ban, tiếc thay, không được chia sẻ bởi những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam – dù họ đều là những kẻ sống sót sau cuộc chiến vừa rồi. Khi bị chất vấn về thái độ vô trách nhiệm này, giới chức có thẩm quyền của Hà Nội, ông tướng Trần Bạch Đằng (nào đó) đă giải thích với phóng viên Rajiv Chandrasekaran như sau: “… t́m kiếm những binh sĩ quá tốn kém mà tiền th́ phải dùng vào việc chăm lo cho cho những kẻ c̣n sống sót.’’ (Dang said the cost of searching for missing soldiers must be weighed against the need to care for the survivors of the war).
V́ đảng viên Cộng Sản Việt Nam là những nguời theo chủ thuyết duy vật nên không quan tâm đến những việc làm có tính cách duy tâm chăng? Nói vậy e không được ổn. Nh́n cái cách họ “thờ’’ ông Hồ Chí Minh th́ biết. Họ có cả một Bộ Tư Lệnh để bảo vệ lăng ông ta mà. Họ đâu phải là những kẻ vô tâm và lo tốn kém.
Họ ướp xác ông Hồ và bảo tŕ cũng như bảo vệ nó tới cùng chỉ v́ nó có giá trị như một thứ môn bài (patent) cho phép họ tiếp tục hành nghề cách mạng – hay ít nhất th́ họ cũng tưởng hoặc mong như thế. C̣n 300,000 bộ xuơng của đám binh sĩ chết dấm chết dúi đâu đó, trong cuộc chiến vừa rồi, đâu c̣n một chút giá trị thực tiễn nào nữa khiến họ phải quan tâm.
Rơ ràng họ không phải là những người duy vật, cũng không phải là những kẻ duy tâm mà là những tên duy… lợi ! Hăy nh́n vào thực tế, xem cô nhi quả phụ hay bố mẹ của những kẻ đă hy sinh được “chăm lo’’ ra sao – từ nửa thế kỷ qua?
’’Lúc ấy nguời ta sợ nhất là nh́n thấy người phát thơ. Hàng ngày hàng trăm cái thơ báo tử để trong xắc cốt nguời cán bộ xă. Anh ta đi đến nhà nào là mang đau thương tang tóc đến nhà đó… họ sợ nhất là sau cái ‘lễ truy điệu trọng thể’ để ‘Tổ Quốc ghi công’ là họ bị đẩy ra lề xă hội, không ai nuôi dưỡng.’’ (sđd trang 136 -138).
“Lúc ấy’’, qua đoạn văn vừa dẫn, là h́nh ảnh của xă hội miền Bắc vào thập niên 60 và đầu 70 – khi mà Đảng Cộng Sản Việt Nam c̣n cần động viên xương máu nguời dân cho chinh chiến. Cuộc chiến đă tàn. Bây giờ th́ họ c̣n cần ǵ đến ai nữa?
Do đó, khi thấy một phế nhân lê la xin ăn trên hè phố Sài G̣n, đừng vội nghĩ đó là thương binh của quân đội miền Nam – những kẻ thuộc phe bại trận. Không nhất thiết như thế đâu. Bây giờ ăn mày là một cơ hội đồng đều (equal opportunity), không phân biệt tuổi tác, giới tính hay thành phần xă hội.
Ranh giới giữa kẻ thắng và người bại đă bị xoá nḥa từ lâu ở đất nước này. Nơi đây – trước đói rách, khủng bố và mọi bất công xă hội – tất cả đều b́nh đẳng. Việt Nam hôm nay chỉ c̣n một nhóm nguời thu tóm hết quyền bính cũng như sở hữu mọi tài sản xă hội và cả một dân tộc bị trị v́ đă bị lừa gạt trắng trợn – thế thôi.
Bài báo của Rajiv Chandrasekaran kết thúc bằng một tâm sự năo ḷng: “Tháng 4 năm nay khi cả nước đang chuẩn bị kỷ niệm… ngày ‘giải phóng miền Nam’ và thống nhất đất nước nhiều gia đ́nh đă đến nghĩa trang để thăm mộ thân nhân. Riêng bà Thắm th́ có cảm tưởng ḿnh bị bỏ rơi. Theo bà ta th́ ‘em tôi đáng lẽ phải nằm trong nghĩa trang liệt sĩ chứ đâu phải ở rừng sâu.’(My brother belongs in the Martyrs’ Cementery,’’ Tham said, ’’not out in the jungle’’).
Người ta có thể hiểu được t́nh thuơng yêu vô hạn của bà Thắm đối với người em vắn số nhưng thực khó mà chia sẻ với bà ta cái ảo tưởng rằng ông Nguyễn Dinh Duy là liệt sĩ. Cùng với hàng triệu nguời khác nữa, sự hy sinh của ông Duy – chung cuộc – chỉ đẩy cả một dân tộc vào cảnh lầm than và băng hoại.
Bà Thắm vẫn chưa nhận ra được rằng cái đuợc mệnh danh là cuộc chiến “chống xâm luợc’’ và “giải phóng miền Nam’’ vừa qua chỉ là những canh bạc bịp. Nhờ vào gian manh, thủ đoạn và tất cả những mánh khoé lường gạt cần thiết nên Đảng Cộng Sản Việt Nam đă thắng. C̣n nhân dân th́ thua trắng tay.
Họ mất ráo mọi thứ, kể cả xương cốt của người thân, để đổi lấy… những “bảng ghi công’’: Liệt Sĩ, Gia Đ́nh Có Công Với Cách Mạng, Mẹ Việt Nam Anh Hùng… Hoặc giản dị hơn nữa là một cái băi đất mênh mông (chi chít bia mộ) với bốn chữ “Nghĩa Trang Liệt Sĩ” treo ở cổng vào, và chấm hết.
Chỉ có thế thôi mà bà Thắm vẫn bị đứng ngoài. Bà ta có lư do để buồn, dù đó một nỗi buồn “không lấy ǵ làm chính đáng.’’ Buồn hơn nữa là hơn một phần tư thế kỷ sau, sau khi chiến tranh chấm dứt, một số nguời Việt ở hải ngoại – những kẻ có nhiều cơ hội để nh́n vấn đề một cách khách quan hơn – vẫn tiếp tục tranh căi và xỉ vả lẫn nhau về những chuyện rất không cần thiết và cũng chả chính đáng tí nào.
Họ giống như những nguời đàn bà nhà quê đi chợ bằng xe lam. Trên xe bị một thằng lưu manh dụ chơi bài ba lá, lột hết tiền, và đuổi xuống xe. Thay v́ xúm nhau, túm cổ thằng khốn nạn, vả cho nó rụng hết răng rồi lấy lại tiền th́ họ quay ra xa xả đổ thừa lỗi lầm cho kẻ này nguời nọ; sau đó, họ căi vă và xỉa xói lẫn nhau – đôi khi – bằng những ngôn từ nặng nề và thô tục nhất.
<<trở về đầu trang>>