|
Đôi lời giới thiệu bài viết: ''Khi Chết, Ta Đem Theo Được Ǵ?''
Đó là bài của Tác Giả ''Ngộ Đạo Đất Trời'' được đăng ở Trang ''Thư Viện Hoa Sen''. Được anh bạn gởi cho bài viết ấy, tôi đọc, thấy quá hay như nhận xét của anh ta. Chính v́ thế, sau khi sao lại bài viết, tôi mạo muội sửa những lỗi chính tả (dấu ''hỏi, ngă, chấm, phẩy'') và đưa các ''câu nói trực tiếp'' vào trong ngoặc kép, cho hàng chữ nằm nghiêng và tô màu một vài nơi theo chủ quan của ḿnh.
Vậy, kính mong Tác Giả ''Ngộ Đạo Đất Trời'', Trang ''Thư Viện Hoa Sen'' và quư vị Độc Giả vui ḷng tha thứ việc làm của tôi vừa nêu. V́ quá tâm đắc ''Triết Lư'' trong bài viết, tôi ước mong bài có thêm nhiều Độc Giả, mà Tuổi Trẻ hôm nay là đối tượng rất quan trọng. Hậu Sinh cần đọc những tài liệu ''Học Làm Người'' như bài viết ấy. Được như vậy, Đất Nước Việt Nam sẽ nở ''Hoa T́nh Người'' theo ''Từ Bi, Bác Ái, Việt Đạo, Đạo Gia Thất …''
Cách đây vài hôm, trong khi trao đổi với tôi về ''đời sống, sự chết'', anh Trần Đức Đạt nói về ư nghĩa của ''Đau Khổ và Hạnh Phúc'', của Mùa Chay Thánh, Tuần Thương Khó, về Tin Mừng (Tin Lành) Cứu Rỗi của Chúa Giêsu và về cái chết của người thân. Quan niệm của anh Đạt giống hệt tư tưởng trong bài viết của tác giả ''Ngộ Đạo Đất Trời'' mặc dù cả hai chúng tôi chưa được đọc bài ấy. Tuy nhiên, là Kitô Hữu, chúng tôi vẫn luôn nh́n cuộc sống là Ân Huệ của Trời ban cho mỗi người. Đau khổ trong cuộc đời làm tăng giá trị của Hạnh Phúc bởi v́ Hạnh Phúc sẽ là điều không tưởng nếu con người chưa trải nghiệm Đau Khổ. Ngay trong Đau Khổ, Kitô Hữu chúng tôi vẫn t́m thấy Hạnh Phúc. Chính v́ thế mà tôi ghi dưới chân ''Thập Ác'' treo trong nhà như sau: ''Thập Giá là Vinh Dự của con.'' Thánh Augustin cũng đă dạy: ''Hạnh Phúc chính là tiếp tục thích những ǵ ḿnh đang có.'' (Le bonheur, c'est de continuer à désirer ce qu'on possède.) Khẩu Hiệu của Giám Mục (cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận) là ''Vui Mừng và Hy Vọng'' (Gaudium et Spes). Cho nên, cả đời, ngài sống Khẩu Hiệu ấy. Trong tù, ngài đă viết Kiệt Tác ''Đường Hy Vọng'' mà Đức Hồng Y Roger Etchegaray đặt tên cho là ''Ngàn Giọt Phúc Âm''! Trong Lời Giới Thiệu cuốn sách ấy, ngài c̣n viết như sau: ''Trên mọi nẻo đường của cuộc sống trần gian, tất cả đều là Đường Hy Vọng.''
Khi Thân Phụ tôi vừa ĺa đời, với Đức Tin vào Chúa Quan Pḥng, cả nhà đồng ca bài ''Khi Chúa Thương Gọi Tôi Về'' như sau:
ĐK: Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô: Tôi thật hạnh phúc!
1. Khi dân Sion qua khỏi kiếp lưu dày, tôi vẫn cứ như c̣n sống đời giấc mơ triền miên …
2. Gieo trong đau thương, sẽ gặt giữa vui mừng. Đi khóc lóc u sầu, sẽ về giữa muôn lời ca.
3. Hôm nay chư dân loan truyền với nhau rằng ''Thiên Chúa rất nhân từ, đă làm biết bao ḱ công.''
4. Bao nhiêu anh em lưu lạc chốn quê người, xin Chúa dẫn đưa về, như ḍng nước xuôi miền Nam.
Sau cùng, trước khi trích bản sao bài viết như đă nêu, tôi xin ghi lại lời cuối trong ca khúc ''Kinh Ḥa B́nh'' của Thánh Phanxicô như sau:
''Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời! Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng ḷng con. Xin thương ban xuống những ai ḷng đầy thiện chí Ơn An B́nh.'' (Nhạc và lời Việt của LM KIM LONG. Xin ghi vào máy tên Ca Khúc để nghe.)
Xin chân thành cảm ơn Tác Giả ''Ngộ Đạo Đất Trời'', Trang ''Thư Viện Hoa Sen'' và quư vị Độc Giả.
Nay kính,
Đaminh Phan văn Phước
BÀI VIẾT:
KHI CHẾT, TA ĐEM THEO ĐƯỢC G̀ ...?
Ngộ Đạo Đất Trời
Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông b́nh tĩnh chờ cái chết và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi c̣n lại, mà không bi ai, không sợ hăi. Ông muốn rằng, sau khi chết, gia đ́nh làm đám tang theo ư riêng của ông. Bà vợ nghe dặn ḍ cách thức làm đám tang kỳ dị th́ nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn: ''Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me Tây, như kẻ phá hoại phong hóa nơi đất Thần Kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy hiệu “Velo solex” ra đời, người đàn bà đầu tiên sử dụng, cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi, du đảng, chẳng ai dám giao du thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi và lái xe hơi đầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, th́ chịu sao nổi lời tiếu đàm của bà con, họ hàng?''
Ông Tư cười, nh́n vợ và nói: ''Cái ǵ cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, th́ làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời trước, nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp? Th́ bây giờ đàn bà đi bộ cho ră cẳng ra. Ngày nay, c̣n có ai x́ xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?''
Bà vợ liền nói: ''Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời? Tội nghiệp cho em! Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian!''
Ông Tư trả lời với giọng rất b́nh tĩnh: ''Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh được sao? Ai có nói ǵ, th́ em cứ bảo đó là ư nguyện của anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ư nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ anh về quấy phá em măi sao?''
Nghe đến đây, bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ, ông chồng c̣n sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi th́ bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết th́ bà chịu theo lời ước nguyện của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông th́ ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa th́ khi chết được về Thiên Đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế, sao mà ai cũng sợ chết?
Nếu theo đạo Phật th́ khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu, an b́nh th́ mừng vui, chứ sao lại bi ai?
Và, nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, th́ cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đă sờn cũ, xấu xí, rách rưới, mục nát rồi th́ nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ư nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.
Ông Tư nói với bạn rằng thân xác ông bây giờ như cái quần đă mục mông, rách đáy, không c̣n che được cái muốn che th́ phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông b́nh tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết bị ung thư sắp chết, th́ phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng, rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ c̣n hai con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân, trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi c̣n lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là b́nh tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày c̣n lại thành tươi vui, tốt đẹp và ư nghĩa hơn. Khi ra đi, sẽ không có chút tiếc thương, vướng bận.
Ông chọn con đường sau, nên không buồn bă, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở ḷng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày c̣n lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp ḷng mọi người, v́ ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, th́ dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không c̣n làm được nữa.
Ban đầu, vợ con, gia đ́nh, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ b́nh tĩnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp xa ĺa cơi đời nầy, mà cư xử với ông không khác ǵ người b́nh thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó ǵ cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói: ''Em nh́n vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười: “Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đă được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi… Được Chúa gọi th́ phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu: “Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đă được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..”. Và đây, một cáo phó khác, cũng “khóc báo” với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đă về cơi Phật. Về cơi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cơi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi ǵ?”
Bà Hoa nhăn mặt, nói: ''Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu, từng chữ. Đó là một lối nói thôi. V́ có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về Thiên Đàng, cực lạc, về với Chúa, Phật, cho người sống an ḷng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, b́nh an.''
Ông Tư lắc đầu nói tiếp: ''Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị hành h́nh, cả nhà lao đao, lận đận chăm sóc? Hai vợ chồng bác Thu con cụ, v́ khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đ́nh suưt tan vỡ. Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho mọi người trong gia đ́nh. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con, bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó măi để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao ? Hay là họ không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau ḷng khi thấy cụ nằm liệt ra đó nên cụ chết họ buồn đau? Bởi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là một tiến tŕnh của tự nhiên của trời đất, th́ có chi mà phân ưu, chia buồn. Có ai sống măi được?''
Bà Hoa không đồng ư, nói lớn: ''Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng ông cụ Trương chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng, khi cụ mất, cả nhà cũng buồn v́ mất cụ, mà vui v́ cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của ḿnh khổ cực nằm đó. Thế th́ khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc. Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân ḿnh chết, v́ sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế th́ đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái ǵ mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, th́ cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống, sự chết. Khi trong gia đ́nh có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà b́nh tĩnh, an nhiên, chắc rằng họ đă thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật Giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.''
Bà Hoa hỏi: ''Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?''
Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nổi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên đời.
Ông Tư thường nói với bạn bè rằng rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm th́ chết muộn. Không chết lúc ba, bốn mươi, th́ bảy, tám, chín chục tuổi cũng phải chết. Cuộc đời có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, th́ mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui th́ tội ǵ không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm? Nếu đêm nay đau răng th́ cố thức làm ǵ? Ngủ sớm đi mà quên đau.
Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bởi vậy, khi biết ḿnh sắp chết, th́ hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được.
Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uống thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. C̣n gia đ́nh, th́ thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, v́ phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống b́nh thường, không c̣n có th́ giờ mà tiếc thương, mà bi ai.
Phần người chết, buông tay là xong tất cả, b́nh yên vĩnh viễn. Không c̣n phải lo công việc làm ăn, lo cơm, áo, gạo, tiền, không c̣n lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không c̣n ghen tuông, giận hờn, không c̣n phải thức khuya học hành, hoặc viết văn, làm thơ mệt nhọc, không c̣n theo đuổi mộng lớn, mộng bé, không ưu tư, dằn vặt v́ thời thế, v́ đất nước, quê hương… Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi.
Thiên hạ c̣n ngưỡng mộ, c̣n khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có c̣n biết ǵ nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú ǵ. Có ca ngợi, nhắc nhở th́ để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước mà ǵn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm việc xấu xa đê tiện.
Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp ḥm cho bạn bè thăm viếng, nh́n mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong th́ gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia.
Bà Hoa th́ chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao ḿnh làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đ́nh. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể dị nghị, bàn ra nói vào, thêm thắt, thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu th́ tán thành, muốn làm theo ư kiến của bố; đứa con trai phản đối v́ sợ thiên hạ chê cười. Ông nói với con: “Con nên v́ bố, không nên v́ thiên hạ.”
Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát ḥ, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, th́ kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài tuần, cũng chẳng nghĩa lư ǵ. C̣n chẳng bao lâu nữa, kiêng cử làm chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ư vị. Ông cho rằng đă sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có ǵ để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông th́ ông cũng không muốn nói ra làm ǵ. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát ḥ, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi ḥa nhạc, uống rượu cho đến khi măn cuộc. Ông vui vẻ, b́nh tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không c̣n bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con để họ chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự b́nh tĩnh, sáng suốt, không vui vẻ, nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẻ đă chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết th́ thấy ḿnh đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan, sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bởi vậy, người đă trăi qua cận tử th́ không c̣n sợ chết nữa, mà đón nhận nó như là một ân huệ của trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử v́ ông vốn là con người thực tế và lư trí, cái ǵ chưa kiểm nghiệm được th́ chưa tin. Nhưng ông cho rằng, nếu được như vậy th́ càng tốt. Nếu không được vậy, th́ cũng thôi.
Cuộc đời ông Tư đă trăi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học th́ bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma thiêng, nước độc, đă từng bị bắt làm tù binh, đă vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đă sống trong chế độ hà khắc ḱm khớp, bữa đói, bữa no. Đă đi qua biển t́m tự do. Và ước nguyện rằng được sống thêm một ngày trong xứ tự do th́ có chết cũng không có ǵ tiếc nuối. Thế mà ông đă sống thêm được nhiều năm trong một xă hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đă cho ông cái phần thưởng vô cùng quư giá đó trong nhiều năm qua.
Ông Tư chỉ là một người b́nh thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, th́ ai đến đâu, ông đến đó. Ông ḥa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ x́ phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi ṣng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ hai.
Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ bạc th́ nóng mặt, cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư c̣n có chút máu nghệ sĩ. Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi tŕnh diễn ở các nơi công cộng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết v́ bà sợ người ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nản ḷng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu kín v́ sợ vợ đọc được, chê bai.
Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn tản. Một hôm, nghe ông Tư nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết, ông bạn nầy đờ ra và nói: ''Bác chờ chút, tôi lục t́m bài thơ của một ông bạn tôi. Sao mà ư tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, c̣n cất giữ đây.''
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc, vừa gật gù. Đọc xong, ông vỗ đùi sung sướng, nói: ''Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một ḿnh tôi suy nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ư nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đă ngồi rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng h́nh như là: Ngă kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn tiện ngă tọa chi. - Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời nầy, không có cái ǵ mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống, người xưa cũng đă viết nhiều, tàng ẩn, bàng bạc trong Kinh Thánh, Kinh Phật.
Ngày xưa khi c̣n nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày, mỗi đêm đều đọc Kinh Thánh. Hồi đó, tôi không hiểu hết ư nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm t́nh với chuyện kinh kệ. Nhưng, khi lớn lên, đọc lại Kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go ch́m nổi, t́m được yên b́nh để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh.''
Ông bạn cười, nói: ''Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo Cao Đài hay không?''
Ông Tư trả lời: ''Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa ǵ cũng hoan nghênh. Bà xă tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa, khi c̣n trong Quân Đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ Kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành; nhưng, đọc măi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bởi vậy, tôi có quan niệm rất rơ ràng về sự sống, cái chết, và b́nh tĩnh đón nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.''
Hai người đang nói chuyện th́ có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đ́nh không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:
''Kêu gọi th́ tôi đóng tiền, chứ thực t́nh trong ḷng tôi nghĩ khác. Chết th́ hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho ḍi bọ nó rúc rỉa, cho śnh thối chứ có được ǵ. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng ǵ đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, th́ trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đă chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẳng c̣n một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, th́ các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, th́ lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đ́nh cho thêm tốn kém.''
Bạn ông Tư hỏi: ''Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bởi vậy, phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.''
Ông Tư cười lớn nói: ''Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, th́ sắt đá cũng đă mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẻ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ư nghĩa của Kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có c̣n, th́ cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được? Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong ṿng một trăm năm thôi.''
Bà bạn bàn thêm: ''Sau một trăm năm th́ không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng! Nhưng, khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn th́, sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẳng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm trước, con cháu không nghe, không c̣n chứng cớ! Cả người hứa hẹn, lẫn người nghe hứa hẹn, đă chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng v́ lo làm ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai c̣n đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.''
Bạn ông Tư nói: ''Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, th́ họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau ḷng thân nhân? Rơ như câu nguyền rủa ở xứ ḿnh là “chim tha, quạ rỉa.”
Chẳng có đau ḷng chi cả – Ông Tư bàn thêm – Bên đó, toàn đá núi cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nổi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bởi thế, tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.
Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, th́ đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma v́ toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương th́ chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và c̣n được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẳng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như Đền Quốc Tổ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa, chăm nom. Thế mà cũng có c̣n tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi ḿnh, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được ǵ. Chưa kể những kẻ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lănh tụ cộng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mă cũng bị phá bỏ, san bằng.
Bởi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi. Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết, sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân t́nh, có người nói là ông Tư đă tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng c̣n nước th́ c̣n tát, biết là dù có tát th́ thuyền cũng ch́m, th́ quẳng gàu đi cho đỡ mệt trước khi thuyền ch́m.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà. Khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẻ buồn rầu, nghiêm nghị để hợp với cảnh tang ma dù trong ḷng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn ră, vẵng ra từ bên trong, ḥa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật ḿnh, vội vă xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ “ Sau Khi Tôi Nhắm Mắt”. Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện tṛ, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Sau Khi Tôi Nhắm Mắt
Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bă
Cười cho to, kể chuyện tếu, vui đùa,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm ǵ ?
Mắt đă nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái.
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm ch́.
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da măi măi sống trăm đời?
Kẻ trước, người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc, khóc cho người c̣n lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng h́nh, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường t́nh, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo, đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ư thức
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng.
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Th́ đau buồn hạnh phúc cũng như không.
Đừng xây mộ, khắc bia, ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài.
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đă chết tự sơ khai .
Khi tôi chết, đừng ma chay, đ́nh đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi c̣n tha thiết chút t́nh mê
Th́ cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương, hài cốt khác nhau ǵ
Nhưng đất mẹ chan ḥa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ, có người th́ mỉm cười, có người vui hẳn và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đă nói hết ư nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, th́ việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt?
Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở, không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy, vang dội. Khi khách đă đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng, đứng chắp tay bên bàn thờ; cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm, nhoẻn miệng cười và nói: ''Thưa các cụ, cô bác chú d́, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quư vị đă có ḷng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ư nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ b́nh thường v́ sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đă b́nh tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đ́nh và cho chính ông. Ông đă dặn ḍ chúng tôi không nên khóc lóc, không nên buồn rầu v́ sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.''
Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía, sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào th́ có tiếng ông Tư đọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm răi, rơ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng, lắng nghe; người th́ nghiêm trang, người th́ mỉm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ư: “Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da măi măi sống muôn đời - Kẻ trước người sau xếp hàng xuống mộ - biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.” Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ.
Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẩy, uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh pḥng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm. Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc, gào lớn: ''Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu, bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, c̣n cười, nói lung tung. Chỉ có tôi là chị cậu, thương cậu thật t́nh thôi, ruột đứt ḷng đau, nên khóc than đây.''
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giải bày. Bà vùng vằng và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tĩu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: “Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên ḥm chúng mầy.” Nhiều người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe, chạy đi...
Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi ai v́ sợ
gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người v́ chuyện
không may, không vui vừa xảy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuở trung học, đại diện bà con, đến trước
bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói: ''Tư
ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của
tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng
dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi
một đám tang như thế nầy th́ vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ
làm thật.''
Một vị mục sư là bạn thân của gia đ́nh, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đă được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đă từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị: ''Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đă thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cơi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ, thanh thản ra đi như kẻ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đă hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong Đạo Pháp.''
Mọi người ra về, ḷng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, c̣n vang vọng nhạc vui đưa tiễn đám tang khách.
Sau tang lễ, bà Hoa, vợ ông Tư, thở phào. Bà vui mừng v́ đă làm được đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ. Và, nếu không tán thành, họ cũng im lặng; chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.
Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất nhựa dày để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam.
Chiếc xe chở hàng của hăng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất; thùng xe vở nát, hàng hóa tung vung văi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế găy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn v́ bị vợ cắm sừng, đă uống rượu, say xỉn, không điều khiển được tay lái. Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, măi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hăng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ c̣n có địa chỉ người gởi, nên cái hộp tro xương được hoàn trả cho gia đ́nh, với ghi chú là không có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng, ôm cái hộp mà khóc ṛng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, th́ tấm ḷng hoài vọng quê hương của chồng bà không được măn nguyện, và bên kia cơi đời, ông Tư không yên ổn mà an giấc ngàn thu.
<<trở về đầu trang>>