Ấn Độ và Mỹ đă chọn Dân Chủ
Ngô Nhân Dụng
Hai
nước Ấn Độ và Hoa Kỳ mới kư
các hiệp ước quân sự và năng
lượng, nhưng Ấn Độ từ chối
không thỏa hiệp với Mỹ trong
vấn đề môi trường. Người
Việt Nam thấy điều ǵ trong
kinh nghiệm bang giao giữa
hai nước dân chủ? Đó là hai
quốc gia đối xử với nhau một
cách b́nh đẳng và tôn trọng
lẫn nhau, cho nên có lúc
đồng ư, có lúc bất đồng mà
không gây thù oán.
Hai nước đó dễ giao thiệp v́
họ đều chọn thể chế dân chủ
ngay từ khi lập quốc; ở Mỹ
hơn 200 năm trước đây và tại
Ấn Độ hơn 60 năm. Những
chính quyền biết tôn trọng ư
kiến của dân ḿnh th́ cũng
dễ biết phải tôn trọng ư
kiến của các quốc gia khác.
Lựa chọn sống dân chủ ngay
từ lúc khởi đầu của những
người lănh đạo hai nước đó
đă được các thế hệ sau giữ
ǵn cho đến ngày nay.
Trước khi lên đường rời Ấn
Độ trở về nước sau chuyến
công du 5 ngày, trong cuộc
họp báo chung với Ngoại
Trưởng S.M. Krishna, Ngoại
Trưởng Mỹ Hillary Clinton
nói rằng, “Tôi thiết nghĩ
chúng ta không thể bỏ qua
tầm quan trọng của mối quan
hệ giữa hai nước chúng ta,
giữa hai nước dân chủ. Chúng
ta hiểu khi các chế độ dân
chủ quyết định th́ khó khăn
chứ không dễ; và chúng ta
kính trọng tính chất sinh
động trong thể chế dân chủ
của nhau. Đó là một nền tảng
vững mạnh hơn bất cứ mối
quan hệ nào khác trên thế
giới.”
Bà Clinton nhắc tới “quyết
định khó khăn,” v́ chính phủ
Ấn Độ đă từ chối không chấp
nhận yêu cầu hạn chế khí
thải công nghiệp của Mỹ. V́
một nước đang bắt đầu công
nghiệp hóa, cần chạy gấp để
đuổi kịp các nước tiên tiến
th́ không thể theo những
tiêu chuẩn gắt gao như các
nước tiên tiến khi muốn hạn
chế ô nhiễm trong môi trường.
Một chính quyền do dân chúng
bầu lên ở Ấn Độ phải làm
theo nhu cầu của quốc dân;
mà một chính quyền dân chủ
như ở nước Mỹ cũng phải biết
tôn trọng nỗi khó khăn của
Ấn Độ trước những quyết định
lớn như vậy.
Hai năm trước, Tổng Thống
George W. Bush đă kư một hỏa
ước trao đổi kỹ thuật năng
lượng nguyên tử mà các chính
phủ Mỹ đă cấm vận Ấn Độ
trong 34 năm. Đó là một bước
nhẩy vọt trong việc bang
giao giữa hai quốc gia dân
chủ đông dân nhất và nh́ thế
giới, sau gần một nửa thế kỷ
lạnh nhạt v́ trong thời
Chiến Tranh Lạnh Ấn Độ
nghiêng về phía Liên Xô.
Chính quyền mới ở Mỹ đă bước
thêm những bước mới với
những thỏa hiệp hợp tác quân
sự và công nghiệp vũ khí, kể
cả trong chương tŕnh không
gian. Trong chuyến công du
Tháng Hai năm nay bà Clinton
đă thăm Trung Quốc mà không
tới Ấn Độ v́ muốn tránh
không tới trước ngày dân Ấn
Độ đi bỏ phiếu vào Tháng Năm
vừa qua. Đảng Quốc Đại đă
thắng lớn trong cuộc bầu cử
đó, giống như ông Obama đă
thắng lớn ở Mỹ năm ngoái.
Đúng như lời bà Clinton,
bang giao giữa hai nước tự
do dân chủ bao giờ cũng có
nền tảng vững chắc và lâu
bền hơn với những nước độc
tài.
Trong số các quốc gia theo
thể chế dân chủ, Ấn Độ là
nước đông dân nhất, c̣n Mỹ
là nước mạnh nhất. Cả hai
đều xây dựng được nền tảng
bền chặt cho thể chế tự do
dân chủ kể từ khi lập quốc.
Khi chia sẻ những giá trị
giống nhau về quyền con
người và quyền công dân th́
chính quyền hai nước này dễ
nói chuyện với nhau hơn.
Quan trọng hơn nữa, thể chế
chính trị mà mỗi nước dựng
lên ngay từ khi lập quốc
chứng tỏ có nền tảng chắc
chắn, bắt rễ vào đời sống
của người dân, các nhà chính
trị đều tôn trọng luật chơi
dân chủ không ai dám xé rào.
Đó chính là sức mạnh chính
trị giúp cho mối bang giao
giữa hai nước có thể bền
chặt hơn. Năm 1783, sau khi
đánh bại quân đội Anh Hoàng,
giới lănh đạo các thuộc địa
ở Mỹ lựa chọn theo lề lối tự
do dân chủ. Năm 1947 sau khi
Anh Quốc trao trả độc lập
cho hai nước Ấn Độ và
Pakistan, các nhà lănh đạo
Ấn Độ đă chọn quốc gia tân
lập này phải được cai trị
theo lề lối dân chủ tự do.
Trong cả hai trường hợp đó,
ở nước nào cũng có những khó
khăn, trở ngại và nghi ngờ,
lo lắng. Nhưng quyết tâm của
những người lănh đạo lúc ban
đầu rất quan trọng. Nó ảnh
hưởng tới vận mệnh một dân
tộc trong hàng trăm năm sau
đó.
Tổng Thống George Washington
được người Mỹ tôn sùng v́
chính những lựa chọn của ông
đă tạo thành tập quán chính
trị cho cả nước Mỹ suốt hai
trăm năm. Năm 1783 sau khi
ḥa ước kư với chính phủ
Anh, Washington đă ra trước
hội nghị đại biểu các tiểu
bang xin từ nhiệm, trả lại
cho hội nghị quyền chỉ huy
quân cách mạng, trả lại “ấn
kiếm” để trở về đời sống
thường dân. Ông về Mount
Vernon vừa kịp dự lễ Giáng
Sinh với bà vợ và các đứa
con riêng của bà, rồi từ đó
lo trông nom trang trại của
bà, một người thông minh đảm
lược dù chưa bao giờ được đi
học ở trường. Năm 1787 phải
nhiều người thuyết phục ông
Washington mới nhận làm đại
biểu tiểu bang Virginia
trong Hội Nghị Lập Hiến. Sau
khi bản hiến pháp thành h́nh,
ông lại trở về trông coi
trang trại. Năm 1789 được
bầu ông làm tổng thống quốc
gia mới, sau hai nhiệm kỳ
ông nhất định rút lui.
Trong những năm đầu tiên của
quốc gia non trẻ này, Tổng
Thống Washington có thể chọn
cách khác. Có người muốn
nước Mỹ sẽ thành một vương
quốc để có một ông vua đứng
ngang hàng với vua nước Anh.
Nếu ư kiến đó thành h́nh th́
chắc chắn Washington sẽ được
suy tôn làm vua. Năm 1783 là
lúc hội nghị các tiểu bang
đang kiệt quệ về tài chánh,
nhiều tiểu bang không thiết
tha ǵ đến việc kết hợp lại,
như trong thời chiến. Lúc đó
ông Washington cũng có thể
đóng vai “cứu tinh dân tộc”
đứng ra yêu cầu các đại biểu
trao toàn quyền cho ông để
chấn chỉnh t́nh h́nh tài
chánh, thuế khóa. V́ nhờ uy
tín của ông th́ việc chấn
chỉnh sẽ làm được dễ dàng.
Nhưng Washington đă nhất
định “rũ áo từ quan” chứ
không tham quyền cố vị. Sau
hai nhiệm kỳ làm tổng thống,
một lần nữa ông lại rũ áo
đứng dậy, để cho thế hệ trẻ
hơn gánh vác việc nước. Ít
có một cá nhân nào lại ảnh
hưởng đến tập quán chính trị
của một quốc gia sâu xa như
ông Washington ảnh hưởng
trên nước Mỹ.
Ở Ấn Độ, ông Jawaharlal
Nehru cũng có địa vị giống
như vậy. Khi người Anh rút
đi, để lại những nước nhỏ
tha hồ lựa chọn, hoặc trở
thành nhiều quốc gia độc lập,
hoặc họp lại thành liên
bang; hoặc giữ nguyên các vị
vua xưng hùng cát cứ, hoặc
tổ chức những định chế dân
chủ cho người dân chọn bằng
lá phiếu. Hai trăm triệu dân
cái xứ chưa thành h́nh, sau
được gọi tên là Ấn Độ, có
thể chọn một chế độ thần
quyền, chọn chia làm nhiều
vương quốc và nước Cộng Ḥa
độc lập. Và đất nước chia rẽ
về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn
giáo, đẳng cấp này rất dễ
rơi vào một chế độ quân
phiệt, để trị an những vụ
chia rẽ và bạo động. Nhưng
Nehru là người đă lănh đạo
đảng Quốc Đại đi tới quyết
định chọn lối sống dân chủ
tự do trong một liên bang.
Lựa chọn này đi ngược với
lời khuyên của rất nhiều nhà
chính trị Ấn Độ và ngoại
quốc lúc đó. Họ hỏi làm sao
176 triệu cử tri phần lớn
thất học và nghèo đói có thể
sử dụng lá phiếu chọn người
cai trị họ được? Đám người
đó có biết lá phiếu là cái
ǵ, chính phủ là cái ǵ
không?
Cuộc bỏ phiếu đầu tiên ở Ấn
Độ diễn ra năm 1951 và 1952,
sau khi đă thông qua một bản
hiến pháp dân chủ. Các sử
gia c̣n ghi lại sự ngạc
nhiên của các nhà quan sát
chính trị khi họ thấy những
người dân Ấn nghèo nàn, mù
chữ tham dự tích cực vào
diễn tŕnh dân chủ này. Bài
học rút được là: Khi chúng
ta tin tưởng vào người dân,
họ sẽ trưởng thành, thiết
tha với quyền bầy tỏ ư kiến
bằng lá phiếu.
Một nữ kư giả Mỹ tới Ấn Độ
quan sát và chụp h́nh cuộc
bỏ phiếu đầu tiên ở Himachal
Pradesh đă kinh ngạc trước
sự tận tâm của các công chức,
những người vẫn được huấn
luyện ư thức rằng bộ máy
hành chánh phải đứng ngoài
các hoạt động chính trị đảng
phái. Một công chức địa
phương đă đi bộ 6 ngày mới
lên tới huyện dự khóa huấn
luyện tổ chức pḥng phiếu
như thế nào. Một công chức
khác khá giả hơn, cưỡi trên
lưng con lừa tới dự họp sau
4 ngày di chuyển. Sau khi dự
khóa huấn luyện đó, họ trở
về làng ḿnh đem theo những
bao bố đựng hộp đựng phiếu,
các lá phiếu in sẵn, bảng
hiệu của các đảng tranh cử,
và danh sách các ứng cử viên.
Đến ngày bỏ phiếu, cô nhà
báo Mỹ đă tới làng Bhuti
trên sườn núi. Tại đó, pḥng
đầu phiếu là một ngôi trường
với một lớp học, chỉ có một
cửa ra vào. Theo luật bầu cử
th́ các cử tri phải vào bằng
một cửa và sau khi làm bổn
phận công dân phải đi ra
bằng cửa khác. Các nhân viên
pḥng đầu phiếu phải bắc ghế
cho các cử tri già bước lên
trèo qua cửa sổ khi đi ra.
Đó là những bước chân đầu
tiên dẫn tới nền dân chủ Ấn
Độ. Nhờ ḷng thành tín của
giới lănh đạo chính trị từ
lúc ban đầu, người dân đă
tin tưởng vào thể chế tự do
dân chủ trong hơn nửa thế kỷ
qua. Tại hai quốc gia Mỹ và
Ấn Độ, không phải chỉ có
Washington và Nehru chọn con
đường dân chủ. Trong giai
đoạn thành lập thể chế quốc
gia sau khi độc lập, cả Mỹ
lẫn Ấn Độ đều có những nhà
trí thức hiểu biết và tin
tưởng vào dân chủ.
Biết rằng việc xây dựng lối
sống tự do dân chủ cần thời
gian chứ không giống như nấu
ḿ ăn liền, cho nên chúng ta
cần phải khởi đầu quá tŕnh
dân chủ hóa càng sớm càng
tốt. Đảng Cộng Sản không có
lư do nào để tŕ hoăn không
trả lại quyền quyết định cho
dân. Nếu những người Ấn Độ
có khả năng bắt đầu chế độ
dân chủ tự do từ năm 1951 (trong
khi 90% dân chúng họ mù chữ
không đọc được tên các đảng
chính trị mà chỉ có thể phân
biệt bằng dấu hiệu), th́
không có lư do ǵ mà 84
triệu người Việt Nam không
được sử dụng quyền tự do dân
chủ của ḿnh.